Chuyển
đổi số: Con đường đổi mới và tăng trưởng bao trùm cho Việt Nam. Hình ảnh minh
cho Chương trình Nghị sự 2030 với 17 mục tiêu phát triển bền vững đã được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua nhằm chấm dứt đói nghèo, bảo vệ hành tinh và
đảm bảo sự thịnh vượng cho tất cả mọi người. (Ảnh: Vũ Phong)
Trong thế giới thay đổi và biến động ngày nay, chuyển đổi số đã
nổi lên như một động lực then chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng bao trùm.
Bằng cách khai thác sức mạnh của công nghệ, chính phủ, doanh nghiệp và xã hội
có thể thu hẹp khoảng cách, trao quyền cho các cộng đồng khó khăn và tạo cơ hội
phát triển kinh tế.
Việt Nam công nhận vai trò xúc tác của chuyển đổi số. Thông qua
việc phê duyệt các mục tiêu quốc gia đầy tham vọng nhằm hỗ trợ tầm nhìn tổng
thể về một quốc gia số thịnh vượng vào năm 2030, Việt Nam đặt ra những cải cách
căn bản và toàn diện trong hoạt động của Chính phủ, hoạt động kinh tế của doanh
nghiệp cũng như cách sinh hoạt và làm việc của người dân.
UNDP đặt chuyển đổi kỹ thuật số làm trọng tâm trong công việc
toàn cầu của mình, tập trung vào việc tạo ra một thế giới nơi chuyển đổi kỹ
thuật số đóng vai trò trao quyền chính cho con người và hành tinh thông qua
trao quyền kinh tế, tiếp cận thông tin và dịch vụ, và trình độ kỹ thuật số.
Theo cách tiếp cận toàn cầu này, UNDP đang hỗ trợ Việt Nam lồng ghép các giải
pháp kỹ thuật số để tăng cường tính minh bạch, toàn diện và cung cấp dịch vụ
quản trị điện tử, góp phần thực hiện các mục tiêu chuyển đổi kỹ thuật số quốc
gia.
Nhiệm vụ trọng tâm
Việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số
quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” vào ngày 3/6/2020 là cột mốc
quan trọng trong quá trình phát triển số của Việt Nam. Điều này thể hiện khát
vọng trở thành quốc gia và nền kinh tế số hàng đầu trong khu vực ASEAN vào năm
2030 và thúc đẩy thử nghiệm toàn diện các công nghệ mới trong nền kinh tế số
của Việt Nam. Chương trình này đặt ra những nhiệm vụ trọng tâm mà Việt Nam cần
thực hiện nhằm phát triển chính phủ số hiệu quả, minh bạch và mọi người dân đều
có thể tiếp cận, nhằm tạo ra nền kinh tế số bao trùm và bền vững, xây dựng một
xã hội số an toàn, bảo mật và công bằng và hình thành các doanh nghiệp số Việt
Nam có năng lực toàn cầu.
Chương trình quốc gia của Việt Nam lấy con người làm trung tâm,
nhấn mạnh chuyển đổi kỹ thuật số là phương pháp then chốt để đạt được các Mục
tiêu Phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc (LHQ). Chương trình nhấn mạnh
các lĩnh vực quan trọng như cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, nguồn nhân lực, phát
triển chính sách cũng như nghiên cứu và phát triển.
Thông qua chương trình này, Việt Nam đặt mục tiêu nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế, với nền kinh tế kỹ thuật số chiếm 20% tổng GDP
và tăng năng suất hàng năm ít nhất 7% vào năm 2025. Một trong những mục tiêu
chính là 80% dịch vụ công trực tuyến đủ điều kiện ở cấp độ 4 có thể truy cập
được thông qua thiết bị di động vào năm 2025, đảm bảo tích hợp các tiến bộ kỹ
thuật số vào mọi khía cạnh quản trị.
Với chương trình quốc gia này, Việt Nam đã có vị thế tốt để phát
huy tiềm năng của mình trong chuyển đổi kỹ thuật số. Tổng số nhân lực công nghệ
thông tin (CNTT) ở Việt Nam đạt khoảng 1,15 triệu người, với 160 trường đại học
trên toàn quốc cung cấp các chương trình đào tạo kỹ thuật trong lĩnh vực này.
Đến tháng 5/2022, tất cả 63 tỉnh thành đã thành lập Ban Chỉ đạo
Chuyển đổi số, 55/63 địa phương đã ban hành nghị quyết về chuyển đổi số và 59
địa phương địa phương ban hành chương trình, kế hoạch, đề án về chuyển đổi số
giai đoạn 5 năm tới, thể hiện quyết tâm chính trị nhằm đạt được các các mục
tiêu mà Thủ tướng đề ra. Ngoài ra, chuyển đổi kỹ thuật số đã được áp dụng mạnh
mẽ trong các doanh nghiệp, với nhiều doanh nghiệp CNTT đóng vai trò tiên phong
trong các lĩnh vực nghiên cứu, phát triển và đổi mới, đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy công nghệ và đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế kỹ
thuật số.
Tuy nhiên, hành trình chuyển đổi số của Việt Nam không phải là
không có thách thức. Yêu cầu then chốt của chuyển đổi số là thiết lập hệ thống
cơ sở hạ tầng số mới, chất lượng cao trên toàn quốc. Điều này đòi hỏi phải đầu
tư đáng kể vào kết nối băng thông rộng tốc độ cao, phủ sóng các thành phố lớn,
trung tâm công nghệ thông tin và khu công nghiệp nhưng cũng phải phủ sóng toàn
quốc để kết nối các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa, các cơ quan nhà nước,
trường học và cơ sở y tế, và cuối cùng là mọi nhà. Điều này cũng đòi hỏi một
khoản đầu tư đáng kể vào việc phát triển các nền tảng kỹ thuật số hiệu quả có
thể hỗ trợ việc chuyển đổi số của chính phủ, doanh nghiệp và xã hội đồng thời
đảm bảo môi trường kỹ thuật số an toàn và bảo mật.
Vẫn còn một khoảng cách đáng kể về trình độ hiểu biết công nghệ
số của người dùng Việt Nam. Trong khi khoảng 3/4 người dân Việt Nam dùng
Internet, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia được kết nối nhiều
nhất trên toàn thế giới, thì nhiều người, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vẫn
thích sử dụng tiền mặt hơn là ví kỹ thuật số hoặc tài khoản ngân hàng và dịch
vụ tài chính trực tuyến.
Khảo sát Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI) hàng
năm gần đây nhất của UNDP vào năm 2022 cho thấy chưa đến 5% số người được hỏi
trên toàn quốc đã truy cập các dịch vụ quản trị điện tử thông qua Cổng dịch vụ
công quốc gia. Việc phát triển các dịch vụ trực tuyến hiệu quả cần đi đôi với
việc nâng cao nhận thức và phát triển kiến thức về kỹ thuật số, hỗ trợ người
dân chuyển từ sử dụng tiền mặt và giấy tờ sang tiếp cận các dịch vụ tài chính
và quản trị điện tử kỹ thuật số, thanh toán không dùng tiền mặt và các dịch vụ
kỹ thuật số khac một cách tự tin và an toàn trong khi vẫn duy trì các lựa chọn
cho những người chưa có khả năng tiếp cận các dịch vụ kỹ thuật số.
Đảm bảo truy cập kỹ thuật số công bằng với tất cả các thành phần
xã hội cũng là một thách thức, đặc biệt là ở các khu vực miền núi và vùng sâu
vùng xa của Việt Nam cũng như các hộ gia đình nghèo và dễ bị tổn thương. Ở
những vùng sâu vùng xa còn khó khăn, khả năng tiếp cận kết nối internet và
thiết bị kỹ thuật số an toàn có thể bị hạn chế, đang cản trở việc áp dụng rộng
rãi các dịch vụ kỹ thuật số. Mặc dù chuyển đổi số có thể trao quyền cho các
cộng đồng khó khăn, nhưng khoảng cách số vẫn là một mối lo ngại và cần có những
nỗ lực mang tính chiến lược, bền vững để đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía
sau.
Trước những thách thức này, UNDP đang vận dụng chuyên môn và
kinh nghiệm quốc tế của mình để hỗ trợ hành trình chuyển đổi kỹ thuật số của
Việt Nam, với sự hợp tác của Chính phủ Việt Nam, bao gồm các Bộ đầu mối như Bộ
Công Thương, Trung tâm Đổi mới Quốc gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và Trung tâm
Đổi mới Công nghệ Quốc gia của Bộ Khoa học và Công nghệ, cũng như với các bộ
ngành cụ thể để hỗ trợ các hợp phần chính trong kế hoạch chuyển đổi số của họ.
Thu hẹp các khoảng cách địa lý
Vai trò của UNDP trong
hành trình kỹ thuật số của Việt Nam rất đa dạng, bao gồm cách tiếp cận tập
trung vào việc nâng cao tính minh bạch, mở rộng tính bao trùm và cải thiện việc
cung cấp dịch vụ quản trị điện tử.
Câu chuyện thành công
đáng chú ý là sự hợp tác của UNDP với Bộ Y tế, Sở Y tế 8 tỉnh phát triển, thí
điểm và mở rộng quy mô hệ thống y tế từ xa tuyến cơ sở “Bác sĩ cho mọi nhà”.
“Bác sĩ cho mọi nhà” là một nền tảng số và ứng dụng điện thoại di động trên nền
tảng web hỗ trợ các cơ sở y tế xã kết nối với các cơ sở y tế, chuyên khoa và
chuyên sâu tuyến trên để hỗ trợ tiếp cận tư vấn, khám, chữa bệnh cho người dân
trực tiếp tại trạm y tế xã, kể cả ở vùng sâu, vùng xa và ở những khu vực đặc
biệt dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu.
Sáng kiến này đã trao
quyền cho nhân viên y tế, đặc biệt là những người ở khu vực nông thôn và cải
thiện đáng kể các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho các cộng đồng dễ bị tổn thương.
Mức phát triển của sáng kiến này rất đáng chú ý, với hơn 5.000 tài khoản được
tạo cho các nhân viên y tế và hơn 755.000 tài khoản cộng đồng người dân thiết
lập. Khoảng 28.000 yêu cầu hẹn khám đã được đặt thông qua hệ thống này kể từ
tháng 3/2023 tới cuối tháng 6/2023, và với khoảng 2.693 cuộc gọi video hội chẩn
từ xa và họp giao ban.
UNDP cũng đã hợp tác với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
(LĐTBXH) để xây dựng một cơ chế bảo trợ xã hội có khả năng phục hồi nhanh hơn,
tăng khả năng thích ứng, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và giảm
nghèo đa chiều. Đặc biệt trong thời gian giãn cách xã hội do dịch bệnh
Covid-19, UNDP đã hỗ trợ Bộ LĐTBXH thử nghiệm các phương thức thanh toán điện
tử và đăng ký điện tử cho các đối tượng được hưởng các gói bảo trợ xã hội.
Các cuộc thử nghiệm hệ thống thanh toán điện tử dành cho phụ nữ
dân tộc thiểu số đã được tiến hành thành công ở 5 tỉnh, bao gồm Bắc Kạn, Đắc
Nông, Hà Giang, Bạc Liêu và Cà Mau, giúp họ có thể tiếp cận việc chuyển tiền
qua điện thoại hoặc tài khoản ngân hàng của họ. Tại 4 tỉnh khác, bao gồm Bắc
Giang, Thái Nguyên, Quảng Nam và Bình Phước, UNDP đã hỗ trợ chuyển đổi từ khảo
sát trên giấy, đi đến từng nhà sang việc tự đăng ký kỹ thuật số để nhận trợ
giúp xã hội, trao quyền cho người dân chủ động công bố tình trạng nghèo đa
chiều của mình, thúc đẩy việc thu thập dữ liệu toàn diện và hiệu quả. Hệ thống
tự đăng ký kỹ thuật số này sẽ được mở rộng quy mô trên toàn quốc, góp phần mang
lại hiểu biết toàn diện hơn về nghèo đói và nâng cao tốc độ, hiệu suất và hiệu
quả của các biện pháp can thiệp.
Năm 2023, UNDP và Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển
Truyền thông đã đưa ra kết quả đánh giá về khả năng tiếp cận và mức độ thân
thiện với người dùng của 63 cổng Dịch vụ công trực tuyến cấp tỉnh thành. Đánh
giá này nhằm xác định khoảng cách về năng lực kỹ thuật số giữa nhà cung cấp
dịch vụ và người dùng, đồng thời cung cấp thông tin về chương trình đào tạo cho
nhân viên khu vực công nhằm thu hẹp những khoảng cách này và ưu tiên các phương
pháp tiếp cận người dùng.
Đánh giá này đã đưa ra các khuyến nghị thiết thực nhằm tăng
cường khả năng tiếp cận và sử dụng cổng dịch vụ công của người dân, bao gồm
phát triển các công cụ tìm kiếm thân thiện và hiệu quả với người dùng, bao gồm:
(1) khả năng tiếp cận dễ dàng, với công cụ tìm kiếm hiển thị nổi bật trên trang
chủ; (2) tối ưu hóa tìm kiếm dựa trên từ khóa và đưa vào các đề xuất cho kết
quả tìm kiếm gần nhất; và (3) bao gồm chức năng tìm kiếm bằng giọng nói. Các
khuyến nghị cũng nhằm mục đích hỗ trợ khả năng tiếp cận cho các nhóm người dùng
cụ thể như người khiếm thị và người dân tộc thiểu số, chẳng hạn như thông qua
việc đưa vào các công cụ như trình duyệt trình đọc màn hình và chức năng tìm
kiếm bằng giọng nói cũng như hướng dẫn bằng video về cách đăng nhập và tìm kiếm
các thủ tục bằng ngôn ngữ dân tộc.
Các sáng kiến thu hút sự tham gia của người dân
Trong lĩnh vực tư vấn và
vận động chính sách, sự tham gia của UNDP đóng vai trò quan trọng. Các sáng
kiến như PAPI và Dự án Hỗ trợ Xã hội II (còn gọi là SAP-II) đã tạo ra những
cách thức đánh giá tiến độ quản trị điện tử và thúc đẩy vận động chính sách
thông qua hệ thống báo cáo kỹ thuật số và quy trình tự đăng ký kỹ thuật số.
Những sáng kiến này tạo điều kiện cho sự tham gia của người dân vào các hệ
thống quản trị và phát triển chính sách.
Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú của UNDP tại Việt
Nam. (Nguồn: UNDP)
UNDP phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giới
thiệu mô hình về một hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử để theo dõi xuất xứ
và dấu chân carbon của từng trái thanh long được sản xuất tại Bình Thuận, tạo
điều kiện cho người tiêu dùng trong nước và quốc tế mua hoặc nhập khẩu thanh
long trái cây từ vùng sản xuất trọng điểm Bình Thuận này có thể quét mã QR để
truy xuất nguồn gốc trái cây và mức độ thực hành “xanh” hoặc thân thiện với môi
trường được áp dụng để sản xuất ra trái cây.
UNDP cũng đang làm việc
với Cục quản lý đê điều và phòng chống thiên tai thuộc Bộ Nông nghiệp &
Phát triển nông thôn để hỗ trợ nâng cấp và chuyển đổi số Hệ thống giám sát
thiên tai Việt Nam. UNDP cũng làm việc với các đối tác cấp quốc gia và cấp tỉnh
khác để thúc đẩy chuyển đổi số như một vấn đề xuyên suốt trong chương trình tổng
thể tại Việt Nam.
Chuyển đổi số là một nỗ lực nhiều mặt bao gồm việc tích hợp công
nghệ kỹ thuật số vào các lĩnh vực hoạt động khác nhau của một quốc gia. Đối với
Việt Nam, việc học hỏi kinh nghiệm và thực tiễn tốt nhất của các nước khác có
thể là công cụ giúp hợp lý hóa hành trình chuyển đổi của mình và dưới đây là
một số sáng kiến đã mang lại lợi ích nhưng có thể được mở rộng với bối cảnh
Việt Nam.
UNDP sẵn sàng chia sẻ thêm các bài học và mô hình được phát
triển thông qua Chiến lược kỹ thuật số toàn cầu của chúng tôi mà Việt Nam có
thể điều chỉnh để hỗ trợ việc chuyển đổi số quốc gia. Ví dụ như, UNDP đã hợp
tác với chính phủ Estonia để chia sẻ kiến thức chuyên môn trong việc phát triển
các nền tảng chính phủ điện tử nhằm đảm bảo sự tương tác liền mạch giữa chính
phủ và người dân. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, UNDP đang hỗ trợ chuyển đổi số cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) thông qua đào tạo và tư vấn phát triển các mô hình
tích hợp nhằm cải thiện năng suất và khả năng cạnh tranh. Việt Nam có thể áp
dụng các chiến lược tương tự để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của mình
cạnh tranh trên thị trường toàn cầu trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.
Các bài học và mô hình khác cũng có sẵn trong hoạt động toàn cầu
của chúng tôi nhằm hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, hệ thống thanh
toán kỹ thuật số, khung pháp lý, bảo mật và an ninh mạng cũng như quan hệ đối
tác công tư để đẩy nhanh chuyển đổi kỹ thuật số.
Khi các sáng kiến kỹ thuật số này thu hút được sự chú ý và mang
lại các kết quả tác động, cam kết của UNDP trong việc tiếp tục đẩy mạnh những
nỗ lực này cùng với Chính phủ Việt Nam và các bên liên quan khác vẫn kiên định.
Cam kết của Việt Nam về sức mạnh chuyển đổi số, cùng với sự tham gia chiến lược
của UNDP, được đặt đúng chỗ để thúc đẩy tăng trưởng toàn diện, khả năng chống
chịu và phát triển công bằng.
Khi quốc gia tìm cách vượt qua bối cảnh phức tạp của đổi mới kỹ
thuật số, vai trò của UNDP với tư cách là đối tác tin cậy và người điều phối
trao đổi kiến thức vẫn không thể thiếu trong việc định hình một tương lai kỹ
thuật số mà không để ai bị bỏ lại phía sau.
Nguồn https://baoquocte.vn/