Công ước ICCPR gồm 6 phần, 53
điều. Lời mở đầu khẳng định chân lý bất di bất dịch rằng việc công nhận
những phẩm giá vốn có và quyền bình đẳng của mọi thành viên trong cộng đồng
nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Công ước quy định các quyền dân sự và chính trị như
sau:
Ảnh minh họa
Phần I (Điều 1) công nhận quyền
tự quyết của mọi dân tộc, bao gồm quyền
được "tự do định đoạt thể chế chính trị và theo đuổi đường hướng phát
triển kinh tế, xã hội và văn hoá" trong điều kiện thực tế của
mình. Công nhận rằng quyền sinh kế của một dân tộc không bao giờ bị tước
bỏ. Để đạt được mục tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi
thiên nhiên của mình, miễn là không vi phạm những nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp
tác quốc tế về kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc
tế. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này, kể cả những quốc gia có
trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến
việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến chương Liên
Hiệp Quốc.
Phần II (Điều 2 - 5) yêu cầu các bên thực hiện các bước cần
thiết để hiện thực hóa các quyền được công nhận trong Công ước, đồng thời trừng
phạt và sửa chữa bất kỳ vi phạm nào trong quá khứ và hiện tại. Nó yêu cầu
các bên cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được thừa nhận trong
Công Ước cho "tất cả mọi người sống trong lãnh thổ và thuộc thẩm quyền
quốc gia, không phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính
kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ
thân trạng nào khác." và nhấn mạnh nam nữ được hưởng các quyền về dân
sự và chính trị nêu trong Công ước một cách bình đẳng. Những quyền này
"chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp khẩn cấp đe dọa đến sự tồn vong
của một quốc gia,", và ngay cả trong trường hợp đó cũng không tha thứ bất
kỳ hành vi nào xâm phạm các quyền được sống, quyền không bị tra tấn và
bị bắt làm nô lệ,
quyền miễn trừ hồi
tố, quyền được giữ nguyên chính kiến,
quyền tự do tư tưởng - lương
tâm và tôn giáo.
Phần III (Điều 6 - 27) liệt kê các quyền được Công ước bảo hộ,
bao gồm các quyền sau:
- Quyền toàn vẹn thân thể, tức là
quyền được sống, không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ (Điều 6, 7, và 8);
- Quyền tự do
và an toàn nhân thân, tức là quyền không bị bắt và bỏ tù vì các lý do không
chính đáng (Điều 9 – 11);
- Quyền bình đẳng
trước luật, và mọi cáo trạng phải đúng trình tự pháp luật. Bị cáo về
các tội
hình sự có quyền được chấp nhận là vô
tội cho đến khi bị chứng minh là có tội theo luật (Điều 14, 15, và 16);
- Quyền tự do
cá nhân được hiểu theo nghĩa tự
do di chuyển, tự do tư tưởng, tự
do lương tâm và tự do tôn giáo, tự do phát biểu và giữ quan điểm mà không bị ai can thiệp, tự do lập hội và hội
họp, tự do lập gia đình, quyền
khai sinh, và quyền bí mật đời tư (Điều 12, 13, 17 – 24);
- Ngăn cấm bất kỳ hình thức tuyên
truyền cổ vũ chiến tranh hay
gieo giắc kỳ thị chủng tộc, tôn
giáo (Điều 20);
- Quyền tham gia chính trị bao gồm
quyền tự do thành lập, theo hoặc không theo một đảng chính trị, và quyền
bầu cử (Điều 25);
- Quyền được đối xử bình đẳng của các
cộng đồng thiểu số trước luật (Điều 26 và 27).
Nhiều trong số các quyền trên yêu
cầu một số điều cụ thể mà các quốc gia hội viên phải thực hiện.
Phần IV (Điều 28 - 45) quy định các nguyên tắc thành lập và
hoạt động của Ủy
ban Nhân quyền cùng các công việc giám sát và
báo cáo. Đồng thời, Công ước cũng yêu cầu các quốc gia thừa nhận năng lực của
Ủy ban trong giải quyết mâu thuẫn giữa các nước liên quan đến việc thực thi
Công ước. (Điều 41 và 42).
Phần V (Điều 46 - 47) giải thích rằng Công ước sẽ không bị
diễn giải theo cách can thiệp vào hoạt động của Liên Hiệp Quốc hoặc "quyền
của mọi dân tộc được thụ hưởng và sử dụng một cách tự do và đầy đủ các nguồn
tài nguyên của họ."
Phần 6 (Điều 48 - 53) quy định cách thức phê chuẩn, thời gian
có hiệu lực và cách sửa đổi bổ sung sau này.
Đến nay đã có hai bản Nghị định thư
bổ sung tùy chọn áp dụng cho Công ước. Nghị định thư bổ sung I thiết lập cơ chế cho phép các cá nhân trình báo lên Ủy
ban Nhân quyền về các hành vi vi phạm Công ước. Bản Nghị định thư bổ sung II yêu cầu hủy bỏ hình phạt tử hình; tuy nhiên, các nước
được phép sử dụng nó trong trường hợp 'tội ác đặc biệt nghiêm trọng'.
Việt Nam gia nhập Công ước năm 1982.
Từ khi tham gia Công ước, Việt Nam đã có nỗ lực đáng kể để đảm bảo và phát
huy các quyền dân sự, chính trị. Quyền dân sự, chính trị của người dân đã được
ghi nhận một cách đầy đủ và sâu sắc trong Hiến pháp sửa đổi 2013 và được cụ thể
hóa trong các văn bản luật như: Luật Bầu cử đại biểu quốc hội, Luật Báo chí, Luật
Quốc tịch, Bộ luật Tố tụng Hình sự,… Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục triển
khai thực thi Công ước ICCPR nhằm tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa quan điểm
của Đảng và Nhà nước về quyền con người, bảo đảm và phát huy tốt hơn quyền con
người trên cơ sở phù hợp với các quy định của Công ước ICCPR và điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Việt Nam.
(Tổng hợp)